Thừa phát lại tại Ninh Thuận

thừa phát lại tại Ninh Thuận

Thuật ngữ Thừa phát lại có lẽ xuất hiện ở Việt Nam song hành với việc Vua Tự Đức ký Hòa ước ngày 05/6/1862 nhượng cho Pháp 06 tỉnh Nam kỳ. Chế định Thừa phát lại ở Việt Nam đã tồn tại trong suốt thời kỳ Pháp thuộc và thời gian đầu Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa mới giành được chính quyền (cho đến ngày 22/5/1950, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 85/SL). 

Vậy nội dung thừa phát lại tại Ninh Thuận được quy định như thế nào. Bài viết về thừa phát lại tại Ninh Thuận của Rong Ba giúp cho mọi người dễ dàng tiếp cận pháp luật về quy định này.

Thừa phát lại là gì?

Khoản 1 Điều 2 Nghị định của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 của Chính phủ quy định: Thừa phát lại là người được Nhà nước bổ nhiệm để làm một số công việc về thi hành án dân sự, tống đạt giấy tờ, lập vi bằng và các công việc khác theo quy định của pháp luật hiện hành.

Như vậy, Thừa phát lại không phải là công chức nhà nước, nhưng được tuyển chọn theo tiêu chuẩn nghiêm ngặt và bổ nhiệm để làm những công việc thuộc thẩm quyền của Nhà nước. Khi thực hiện những công việc này, Thừa phát lại được sử dụng quyền lực nhà nước.

Nghề này có ở nước ta từ bao giờ và vì sao lại gọi là “thừa phát lại tại Ninh Thuận”?

Có thể nói, thuật ngữ Thừa phát lại xuất hiện ở Việt Nam song hành với việc Thực dân Pháp áp đặt chế độ cai trị và quy chế thuộc địa lãnh thổ. Các tỉnh Nam kỳ lúc này, về phương diện pháp lý, được coi như bất cứ miền nào trong nước Pháp.

Ngày 04/02/1950, Tổng trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Nghị định số 111 quy định chi tiết tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thừa phát lại. Sau này, nhiệm vụ, quyền hạn của Thừa phát lại cũng đã được ghi nhận cụ thể thêm ở Bộ luật Dân sự và Thương sự tố tụng, Bộ luật Hình sự tố tụng năm 1972.

Việc hình thành tổ chức Thừa phát lại ở Việt Nam bắt nguồn từ tổ chức Thừa phát lại ở Pháp. Do đó, về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại ở Việt Nam hầu hết đều rập khuôn theo mô hình Thừa phát lại của Pháp.

Về tổ chức, chức vụ Thừa phát lại do Tổng trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm bằng nghị định, có định rõ trụ sở của Thừa phát lại và Thừa phát lại chỉ được thi hành chức vụ trong phạm vi quản hạt của Tòa sơ thẩm Dân sự mà trụ sở của họ phụ thuộc.

Về nhiệm vụ, tại phiên tòa, Thừa phát lại là Hiệu dịch viên, Thừa tác viên làm công việc báo tin Tòa đăng đường, Tòa bế mạc, hay trong lúc xét xử, gọi các đương sự, người làm chứng, đồng thời chấp hành các mệnh lệnh của Chánh thẩm trong việc giữ trật tự và sự uy nghiêm của phiên tòa.

Ngoài pháp đình, Thừa phát lại có bổn phận tống đạt và thi hành mọi giấy tờ về tư pháp; tống đạt giấy tờ hoặc triệu hoán trạng (tương đương giấy mời, giấy triệu tập hiện nay) ra trước Tòa để dự phiên xét xử; tống đạt giấy đòi nợ; giấy đuổi nhà; lập các tờ công chứng thư để thi hành các nội dung của bản án đã tuyên về trục xuất, phát mãi động sản hoặc bất động sản…

Thời kỳ đầu của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chế định Thừa phát lại vẫn được công nhận và được Nhà nước giao quyền cho thực hiện nhiệm vụ của mình.

Tại Sắc lệnh số 130/SL ngày 19/7/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quy định: Các bản toàn sao hoặc trích sao bản án hoặc mệnh lệnh do các phòng lục sự phát cho các người đương sự để thi hành các án hoặc mệnh lệnh của Tòa án hộ đều phải có thể thức thi hành, ấn định như sau:

“Vậy, Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa truyền cho các Thừa phát lại theo yêu cầu của đương sự thi hành bản án này, các ông Chưởng lý và Biện lý kiểm sát việc thi hành án, cai thị chỉ huy binh lực giúp đỡ mỗi khi đương sự chiếu luật yêu cầu…” .

Cho đến năm 1950 ở miền Bắc mới chấm dứt sự tồn tại của chế định Thừa phát lại. Ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 85/SL về “Cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng”, theo đó, Điều 19 của Sắc lệnh này quy định: “Thẩm phán huyện dưới sự kiểm soát của Biện lý có nhiệm vụ đem chấp hành các án hình về khoản bồi thường hay bồi hoàn và các án hộ, mà chính Tòa án huyện hay Tòa án trên đã tuyên”.

Đồng nghĩa với việc thi hành án dân sự do Thừa phát lại và Ban Tư pháp xã thực hiện trước đây được thay thế bằng thẩm phán huyện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chánh án.

Như vậy, chế định Thừa phát lại ở Việt Nam đã tồn tại trong suốt thời kỳ Pháp thuộc và thời gian đầu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới giành được chính quyền (cho đến ngày 22/5/1950, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 85/SL). Ở miền Nam, chế định Thừa phát lại tiếp tục tồn tại đến năm 1975, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ giải phóng miền Nam thành công, đất nước thống nhất.

thừa phát lại tại Ninh Thuận
thừa phát lại tại Ninh Thuận

Những bước khởi động lại cho chế định thừa phát lại tại Ninh Thuận

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định rõ: “Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự. Nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ phía Nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình…

từng bước thực hiện việc xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án”; “nghiên cứu chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên); trước mắt có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm, trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo”.

Thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương đã ban hành Kế hoạch số 05-KH/CCTP ngày 22/02/2006, trong đó tại Điểm 4c Mục C Phần II có nêu rõ: “Nghiên cứu mô hình tổ chức Thừa phát lại, trước mắt tổ chức thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh (hoàn thành việc nghiên cứu trong năm 2006 để có thể tổ chức thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2007)”.

Tháng 11/2008, Quốc hội thông qua Luật Thi hành án dân sự. Lần đầu tiên kể từ khi đất nước hoàn toàn giải phóng, việc tổ chức thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên) tại một số địa phương từ ngày Luật Thi hành án dân sự có hiệu lực thi hành (ngày 01/7/2009) đến ngày 01/7/2012 được Nghị quyết số 24/2008/QH12 của Quốc hội về việc thi hành Luật Thi hành án dân sự quy định. Triển khai Nghị quyết số 24/2008/QH12 của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 61/2009/NĐ-CP.

Tháng 11/2012, báo cáo trước Quốc hội về kết quả thí điểm chế định Thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp cho biết,  mặc dù thời gian thí điểm chưa dài (thực tế triển khai mới được khoảng 02 năm), nhưng qua tổng kết cho thấy hoạt động của các Văn phòng Thừa phát lại đã thu được kết quả khả quan, được xã hội, người dân đón nhận tích cực.

Ngày 23/11/2012, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 36/2012/QH13 về việc tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại, giao Chính phủ tiếp tục tổ chức thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, ngày 18/10/2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 135/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung tên gọi và một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP.

Đồng thời đã phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao tiếp tục triển khai thí điểm chế định Thừa phát lại tại 13 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; tổ chức tổng kết, xây dựng báo cáo tổng kết theo quy định. Ngày 26/11/2015, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Nghị quyết số 107/2015/QH13 cho chính thức thực hiện chế định Thừa phát lại trong phạm vi toàn quốc.

thừa phát lại tại Ninh Thuận được Nhà nước giao cho làm những công việc gì?

Điều 3 Nghị định được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 135/2013/NĐ-CP quy định có bốn công việc Thừa phát lại được làm:

Thứ nhất, Thừa phát lại thực hiện việc tống đạt các văn bản theo yêu cầu của Tòa án hoặc cơ quan thi hành án dân sự, bao gồm: Giấy báo, giấy triệu tập, giấy mời, quyết định đưa vụ án ra xét xử, bản án trong trường hợp xử vắng mặt đương sự của Tòa án; các quyết định về thi hành án, giấy báo, giấy triệu tập của cơ quan thi hành án dân sự. Ngoài ra, Tòa án và cơ quan thi hành án dân sự có thể thỏa thuận với Văn phòng Thừa phát lại để tống đạt các loại văn bản, giấy tờ khác.

Thứ hai, lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Vi bằng là văn bản do Thừa phát lại lập, ghi nhận sự kiện, hành vi được dùng làm chứng cứ để Tòa án xem xét khi giải quyết vụ án và là căn cứ để thực hiện các giao dịch hợp pháp theo quy định của pháp luật. Như vậy, theo quy định của pháp luật, vi bằng có hai giá trị pháp lý cụ thể:

– Vi bằng có giá trị chứng cứ để Tòa án xem xét khi giải quyết vụ án.

– Vi bằng là căn cứ để thực hiện các giao dịch hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.

Thứ ba, thực hiện việc xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự: Theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự, người được thi hành án có quyền tự mình hoặc ủy quyền cho người khác xác minh điều kiện thi hành án, cung cấp thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự.

Thứ tư, Thừa phát lại được quyền trực tiếp tổ chức thi hành án theo đơn yêu cầu của đương sự đối với các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

Trên đây là toàn bộ tư vấn của Rong Ba về nội dung thừa phát lại tại Ninh Thuận. Nếu như bạn đang gặp phải khó khăn trong quá trình tìm hiểu về thừa phát lại tại Ninh Thuận và những vấn đề pháp lý liên quan, hãy liên hệ Rong Ba để được tư vấn miễn phí. Chúng tôi chuyên tư vấn các thủ tục pháp lý trọn gói, chất lượng, uy tín mà quý khách đang tìm kiếm.

Messenger
Zalo
Hotline
Gmail
Nhắn tin